Bong bóng kinh tế xảy ra khi hiện tượng đầu cơ tràn lan trên thị trường làm giá cả hàng hóa hoặc tài sản giao dịch tăng đột biến đến mức không tưởng.
Bong bóng kinh tế thường xảy ra ở thời điểm nền kinh tế mở rộng một cách nhanh chóng do tình trạng đầu cơ tài sản, đẩy giá trị của chúng lên quá cao. Bong bóng là tình trạng đặc trưng của sự gia tăng nhu cầu đối với một tài sản như hàng hóa, cổ phiếu hoặc bất động sản, khiến giá của chúng tăng lên. Những yếu tố khác bao gồm khả năng tiếp cận tín dụng dễ dàng, lãi suất thấp và sự lạc quan của nhà đầu tư, khi kết hợp lại sẽ tạo nên bong bóng tài chính.
Giá của một loại tài sản tăng lên khi nhiều cá nhân đầu tư, thu hút nguồn vốn khổng lồ. Sau đó, giá sẽ giảm xuống dưới mức hỗ trợ, gây ra hiện tượng bán tháo do tâm lý đám đông. Điều này gây ra tổn thất lớn cho các nhà đầu tư và có thể có tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế.
Dưới đây là năm bong bóng kinh tế lớn nhất trong lịch sử.
Cơn sốt hoa tulip (1636–1637)
Thế kỷ 16, hoa tulip lần đầu tiên được giới thiệu vào các nước Tây Âu. Người dân Tây Âu khi ấy rất ấn tượng với màu sắc sặc sỡ của loại hoa này. Cuối cùng, chính người Hà Lan đã nâng hoạt động kinh doanh hoa tulip lên một tầm cao mới. Câu chuyện của thời kỳ này đã được nhà văn của thế kỷ 19, ông Charles Mackay, nói đến trong cuốn sách có tựa đề tạm dịch “Những ảo tưởng phổ biến và sự điên rồ của đám đông”.
Từ thế kỷ 17, người Hà Lan đã vô cùng giỏi về các kiến thức, kinh nghiệm về thị trường và thương mại. Hà Lan đã có thị trường chứng khoán hoạt động từ năm 1602, công ty Đông Ấn Hà Lan ở thời điểm đó đã kinh doanh trái phiếu và cổ phiếu.
Nguồn cung hoa tulip hạn chế cũng như việc người tiêu dùng quá yêu thích loại hoa tulip có màu hiếm khiến cho giá hoa tulip tăng chóng mặt. Đã có lúc, chỉ riêng một bông hoa tulip có thể đổi được rất nhiều loại mặt hàng khác nhau như vật nuôi, lợn hoặc cừu. Bong bóng trên thị trường hoa tulip lập đỉnh vào năm 1636-1637 rồi sau đó xì hơi dần khiến cho nhiều nhà đầu tư thiệt hại tài chính nặng nề, trong đó có cả các thương gia và quý tộc.
Câu chuyện về công ty Biển Nam (the South Sea Company) (1720)
Thập niên 1700, Chính phủ Anh cho phép công ty Biển Nam (the South Sea Company) quyền thương mại với các nước khu vực Nam Mỹ và nhiều nơi khác sau khi công ty này cho chính phủ Anh vay hàng triệu bảng trong chiến tranh.
Công ty thương mại này được thành lập trong bối cảnh tình hình tài chính của Anh đang khó khăn nghiêm trọng do hai cuộc đại chiến trước đó. Cổ phiếu của công ty lập tức tăng trưởng ấn tượng. Công ty này tuy mang danh công ty thương mại nhưng có chức năng rất quan trọng là mua bán trái phiếu chính phủ.
Công ty Biển Nam được IPO dựa trên việc huy động chủ nợ của chính phủ trên thị trường đổi lượng trái phiếu trị giá nhiều triệu bảng của họ để lấy cổ phần của công ty Biển Nam. Cổ đông của Biển Nam được nhận mức cổ tức 5%. Cổ phiếu của Biển Nam tăng đột biến lên gấp 10 lần giá trị thực của nó, nhu cầu đối với cổ phiếu của công ty tăng chóng mặt, đồng thời kéo theo cổ phiếu của rất nhiều công ty khác.
Chính phủ Anh sau đó đã can thiệp, thông qua “Luật bong bóng”. Luật này ngăn chặn việc thành lập doanh nghiệp mà không có sự chấp thuận của chính phủ, đồng thời hạn chế những doanh nghiệp hiện tại trong mảng hoạt động mà họ đang được cho phép. Cổ phiếu của các doanh nghiệp mới sụp đổ và cổ phiếu công ty Biển Nam cũng không tránh khỏi kịch bản này. Nhà đầu tư trên khắp nước Anh, từ người giàu đến người nghèo, đều mất tiền.
Cơn sốt đường sắt (1845–1847)
Những năm 1840, sự ra đời của hệ thống đường sắt hiện đại đã thổi bùng lên cuộc cách mạng công nghệ ở Anh. Chỉ trong vài năm ngắn ngủi đã có hàng trăm dự án đường ray được Quốc hội Anh phê chuẩn với tổng chiều dài hơn 15.000km. Dự án sau luôn tham vọng và hoành tráng hơn dự án trước nó. Theo học giả Andrew Odlyzko, lượng tiền mà chính phủ đầu tư cho việc xây dựng đường sắt có lúc còn nhiều gấp đôi số tiền chi vào quân đội. Nhờ vậy mà cổ phiếu đường sắt trở thành một hạng mục thu hút các nhà kinh doanh đầu cơ ồ ạt.
Bất chấp niềm tin tưởng của giới đầu tư, ngành công nghiệp đường sắt lại thể hiện không ổn định. Sau đỉnh điểm vào năm 1845, giá cổ phiếu đường sắt phải trải qua nhiều năm lao dốc đau đớn. Tính đến năm 1850, các khoản đầu tư bốc hơi 50% giá trị. Hàng ngàn người như ngồi trong chảo lửa, trong đó có nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng Charlotte Bronte khi những lá phiếu của cô tụt giá từ 120 bảng xuống còn xấp xỉ 20 bảng. “Rất, rất nhiều người bị hệ thống đường sắt kỳ lạ này cướp đi miếng ăn hàng ngày”, bà viết.
Sự sụp đổ Phố Wall (1929)
Sự sụp đổ của phố Wall được nhen nhóm trong một khoản thời gian dài trước đó. Các nhà đầu tư chứng khoán tự tin thực hiện hàng loạt các giao dịch ký quỹ, bằng cách mượn tiền của nhà môi giới, trong khi các ngân hàng bắt đầu có dấu hiệu đầu cơ tiền của khách hàng mà không tuân thủ quy định.
Đến cuối năm 1929, giá chứng khoán tăng vọt với tốc độ không tưởng. Các bộ phận khác của nền kinh tế không theo kịp tốc độ leo thang của thị trường chứng khoán, đã làm dấy lên những đồn đại về khả năng xảy ra một sự đổ vỡ.
Nhiều chuyên gia kinh tế uy tín hàng đầu nước Mỹ đã trấn an nhà đầu tư, bằng lời cam kết rằng “thị trường đang có xu hướng tăng giá”. Trong thời kỳ thập niên 1920, chứng khoán Mỹ đã bùng nổ chưa từng có, vô số người dân Mỹ khi ấy đã dùng những khoản vay dài hạn đầu tư vào chứng khoán, với giấc mộng giàu có. Họ đã được đền bù bằng lợi nhuận tăng lên gấp bốn lần trong khoảng thời gian 1920-1929.
Tuy nhiên sự lạc quan cuối cùng nhanh chóng biến mất vào ngày 24/10/1929, được biết tới như “Ngày thứ Năm đen tối”. Các chỉ số chứng khoán ngày hôm đó đã “cắm đầu lao thẳng”. Các nhà đầu tư đã thực hiện 13 triệu giao dịch bán tháo hoặc chuyển đổi trong cơn hoảng loạn, khiến bảng điểm ở các sàn chứng khoán Phố Wall không thể đăng tải kịp các hoạt động giao dịch.
Sự đổ vỡ kinh hoàng tiếp tục xảy ra vào “Ngày thứ ba đen tối”, khi thị trường ghi nhận đà tụt dốc nhanh hơn trước. Hàng tỷ USD đã bốc hơi khỏi nền kinh tế, khởi đầu một hệ thống tài chính hỗn loạn, với việc 4.000 ngân hàng đổ vỡ vào năm 1933.
Sự rối ren này đã dẫn tới cuộc Đại suy thoái chấn động lịch sử, gây hậu quả nặng nề cho nước Mỹ và lan rộng ra châu Âu trong suốt một thập kỷ. Nhà nghiên cứu Boris Borisov ước tính, số nạn nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ là hơn 7 triệu người.
Bong bóng dot-com (1995–2000)
Thông thường, công nghệ mới hay thu hút sự quan tâm của công chúng. Bong bóng dot-com tại Mỹ cho thấy sự quan tâm của nhà đầu tư lên quá cao có thể dẫn đến trường hợp sụp đổ. Cuối thập niên 1990, nhiều công ty mới kinh doanh dựa vào mạng Internet và huy động được lượng tiền lớn từ nhà đầu tư dù họ không có báo cáo lợi nhuận hoặc công khai được mô hình kinh doanh rõ ràng.
Ngay cả Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), ông Alan Greenspan, đã cảnh báo về những hành vi thái quá trên thị trường, nhà đầu tư vẫn tiếp tục mua vào. Nhiều người mạo hiểm đổ tiền vào cả những công ty có hoạt động kinh doanh rất kém như Pets.com, Webvan và eToys với hy vọng cuối cùng khoản đầu tư sẽ đẻ ra tiền.
Tháng 3/2000, chỉ số Nasdaq chạm mức cao kỷ lục, thế nhưng rồi nhà đầu tư bắt đầu rút tiền. Fed nâng lãi suất, hoạt động kinh doanh của nhiều công ty dot-com từng có thời bùng nổ đi xuống nghiêm trọng. Đến giữa năm 2002, chỉ số Nasdaq giảm khoảng 75% so với mức đỉnh thiết lập trước đó khoảng hơn 1 năm.
PCB Tổng hợp